Đây là thông tin được chia sẻ tại hội thảo "Đánh giá 10 năm thực hiện chính sách an sinh xã hội giai đoạn 2012 - 2020" do Bộ LĐ-TB-XH và Tổ chức lao động quốc tế (ILO) tổ chức ngày 20.4.
Một số chính sách chưa "bao phủ", thiếu bền vững
Bên cạnh những kết quả đạt được, Thứ trưởng Nguyễn Văn Hồi cho rằng, một số chính sách ASXH chưa bao phủ hết các nhóm đối tượng, thiếu bền vững, thực hiện thiếu đồng bộ, chưa đồng đều giữa các địa phương, chênh lệch về mức sống, hưởng thụ văn hóa, tinh thần giữa các vùng, miền, nhóm đối tượng... còn lớn.
Mức trợ cấp xã hội còn thấp, chất lượng an sinh xã hội có mặt còn hạn chế, đời sống của một bộ phận dân cư còn nhiều khó khăn. Hệ thống quản lý còn bất cập, trình độ quản lý chưa cao, vẫn còn hiện tượng lạm dụng, trục lợi chính sách.
Ông Hồi chia sẻ: “Thời gian tới, Việt Nam cần có kế hoạch tổng thể nghiên cứu, tổng kết, đánh giá các chính sách ASXH hiện hành và nghiên cứu xây dựng, đề xuất với T.Ư một nghị quyết mới về chính sách xã hội cho giai đoạn đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045 là hết sức cần thiết, nhằm quản lý và phát triển xã hội phù hợp với mục tiêu đưa Việt Nam trở thành một nước đang phát triển có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 và là nước phát triển có thu nhập cao vào năm 2045. Trong đó, xác định đầu tư cho con người, cho chính sách xã hội là đầu tư cho phát triển nhằm đạt được mục tiêu phát triển nhanh và bền vững".
Để Việt Nam tiến tới tầm nhìn an sinh xã hội cho toàn dân, bà Ingrid Christensen, Giám đốc ILO Việt Nam, nhấn mạnh Việt Nam phải tiếp tục dành những nỗ lực và nguồn lực đáng kể để tăng cường hệ thống an sinh xã hội trên nhiều chiều cạnh khác nhau.
Theo các chuyên gia ILO, việc cải cách các chính sách ASXH cần được thiết kế và thực hiện dựa trên một loạt các nguyên tắc như: phối hợp và liên kết nhiều hơn giữa các chính sách và can thiệp khác nhau; hệ thống ASXH nhạy cảm hơn về giới và phản ứng với sốc; đảm bảo ASXH, không bỏ lại ai phía sau; thúc đẩy sự tham gia của nhiều bên liên quan trong quá trình hoạch định chính sách ASXH...
Báo cáo của Chính phủ đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2024, tình hình năm 2024 trình bày tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV cho biết một số chỉ tiêu kinh tế-xã hội năm 2023 đạt cao hơn số liệu ước tính đã báo cáo Quốc hội tại Kỳ họp thứ 6.
Cụ thể, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cho biết, tốc độ tăng GDP năm đạt 5,05% (đã báo cáo đạt trên 5%), tuy thấp hơn mục tiêu đề ra nhưng là mức cao trên thế giới và khu vực.
Quy mô nền kinh tế đạt 430 tỷ USD, bước vào nhóm các nước trung bình cao. Lạm phát được kiểm soát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân tăng 3,25% (đã báo cáo tăng khoảng 3,5%); thị trường tiền tệ, ngoại hối cơ bản ổn định, mặt bằng lãi suất giảm.
Trước đó, tại thời điểm tháng 12/2024, Tổng cục Thống kê cho biết với tốc độ tăng GDP ước tính đạt 5,05% so với năm trước, quy mô nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD; GDP bình quân đầu người ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Như vậy đến cuối năm 2023, thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm.
Thu ngân sách nhà nước đạt hơn 1,75 triệu tỷ đồng, vượt 8,2% và tăng 133,4 nghìn tỷ đồng so với dự toán, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng an ninh, bảo đảm an sinh xã hội và các nhiệm vụ cấp thiết khác.
Trước tình hình khó khăn của doanh nghiệp, nhiều chính sách, giải pháp được thực hiện đồng bộ, kịp thời, hiệu quả để hỗ trợ nền kinh tế, doanh nghiệp, người dân. Tổng số tiền miễn, giảm, gia hạn thuế, phí, lệ phí và tiền thuê đất đã thực hiện đạt gần 191,5 nghìn tỷ đồng.
Chỉ tiêu quan trọng khác là bội chi ngân sách nhà nước khoảng 3,5% GDP, dư nợ công khoảng 37% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 34% GDP, thấp hơn nhiều so với mức trần và ngưỡng cảnh báo.
Phó Thủ tướng Lê Minh Khái cũng cho biết, tính đến hết năm 2023, ngân sách nhà nước đã dành được khoảng 680 nghìn tỷ đồng để thực hiện chính sách tiền lương mới.
Bên cạnh đó, một số chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác cũng chuyển biến tích cực hơn. Đó là tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 681 tỷ USD; xuất siêu 28,3 tỷ USD (đã báo cáo khoảng 15 tỷ USD), góp phần bảo đảm cán cân thanh toán, hỗ trợ cân đối ngoại tệ.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đạt 39,4 tỷ USD (đã báo cáo khoảng 27-30 tỷ USD), tăng 34,5%; vốn FDI thực hiện đạt 23,2 tỷ USD (đã báo cáo khoảng 20-22 tỷ USD), tăng 3,5%, cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2023 cũng ghi nhận có sự chuyển biến vượt bậc trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng chiến lược, nhất là đột phá về hạ tầng giao thông. Công tác quy hoạch được tập trung triển khai quyết liệt, chất lượng được nâng lên, tạo điều kiện để khai thác, sử dụng hiệu quả các nguồn lực, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội nhanh, bền vững.
“Bẫy thu nhập trung bình” thường xảy ra ở một số nước thu nhập thấp có tiến bộ đáng kể trong việc giảm nghèo nhưng sau đó khó có thể tiến lên thu nhập cao. Nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề bẫy thu nhập trung bình.
Đặc điểm của bẫy thu nhập trung bình
Những nền kinh tế bị mắc bẫy thu nhập trung bình hầu hết đều có đặc điểm chung sau:
- Mạnh lên vì những tài nguyên có sẵn (dầu mỏ, than đá…), chứ không phải do chính sách kinh tế phù hợp.
- Tỉ lệ đầu tư thấp; thiếu cân bằng giữa các ngành nghề.
- Giá cả lẫn chất lượng của hàng hóa thiếu sức cạnh tranh với các quốc gia khác.
- Ngành chế tạo chậm phát triển, chủ yếu nhập khẩu từ quốc gia khác.
- Khoa học công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, các ngành công nghiệp thiếu đa dạng, chậm cải tiến.
- Thị trường lao động kém sôi động, giá nhân công tăng cao.
- Bạn nhận định Việt Nam đang xuất hiện những đặc điểm nào trong số các đặc điểm trên?
Nguyên nhân dính bẫy thu nhập trung bình
Vì sao sau hơn 250 năm công nghiệp hóa toàn cầu với hơn 200 quốc gia và khu vực trên thế giới lại chỉ có rất ít quốc gia trở thành các nền kinh tế phát triển? Lý do nằm ở một số nguyên nhân sau:
Vì sao Việt Nam sập bẫy thu nhập trung bình?
Hiện nay có hai luồng quan điểm, một phía cho rằng nước ta chưa rơi vào bẫy thu nhập trung bình do mới chỉ trải qua 1/3 thời gian nằm ở nhóm nước thu nhập trung bình thấp theo thông lệ. Theo một nghiên cứu, nếu phát triển theo tốc độ hiện tại thì đến năm 2035, GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt 5.000 USD, vượt qua mức cao nhất của nhóm nước thu nhập trung bình thấp.
Việt Nam có nguy cơ cao sập bẫy thu nhập trung bình
Luồng ý kiến thứ hai cho rằng tuy nước ta chưa rơi vào bẫy thu nhập trung bình nhưng nguy cơ rất lớn do 4 đặc điểm sau:
- Tăng trưởng GDP chậm lại sau khi ra khỏi nhóm nước thu nhập thấp.
- Chênh lệch GDP bình quân đầu người của Việt Nam tụt hậu so với các nước lân cận trong khi những nước này chưa thoát ra khỏi nhóm nước thu nhập trung bình.
- Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam còn thấp, tăng trưởng kinh tế chậm lại và chủ yếu dựa vào tăng vốn và tăng số lượng lao động. Yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) chiếm tỷ trọng thấp. Bên cạnh đó, hiệu quả đầu tư và năng suất lao động chưa cao so với các nước trong khu vực, một phần do xuất phát điểm của nước ta thấp.
- Xuất hiện một số vấn đề cản trở tăng thu nhập: Cơ cấu “dân số vàng” mới qua được mươi năm nhưng đã có dấu hiệu bước vào thời kỳ già hóa dẫn đến tình trạng chưa giàu đã già. Cơ cấu kinh tế mặc dù có sự chuyển dịch tích cực nhưng vẫn mang nặng tình trạng lấy công làm lãi. Ngành công nghiệp chủ yếu là gia công và lắp ráp, chưa tự sản xuất được máy móc. Nhóm ngành dịch vụ cũng được cho là thiếu chuyên nghiệp, lao động phi chính thức chiếm tỷ trọng lớn dẫn đến năng suất toàn ngành chưa cao.
Có thể nói thể không bị rơi vào bẫy thu nhập trung bình, Việt Nam cần cố gắng ở mọi mặt, bắt đầu từ giáo dục, nhận thức, song song với đó là những chính sách kịp thời của Chính phủ, sự sáng tạo trong mọi ngành nghề để nâng cao năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.
Hãy theo dõi thêm những bài viết về tài chính và đầu tư, kinh doanh được TOPI cập nhàng hàng ngày để có thêm nhiều kiến thức bổ ích bạn nhé.