- Đơn vị chủ trì: Trung tâm Thông tin và Dịch vụ tài chính
Kết quả cần đạt được đến năm 2025 của chính sách xóa đói giảm nghèo giai đoạn 2021-2025
Các kết quả và chỉ tiêu chủ yếu cần đạt được đến năm 2025 bao gồm:
* Các kết quả và chỉ tiêu chủ yếu của Chương trình:
- Phấn đấu giảm 1/2 số hộ nghèo và hộ cận nghèo so với đầu kỳ theo chuẩn nghèo đa chiều của quốc gia;
- 100% các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội liên kết vùng, phục vụ dân sinh, sản xuất, thương mại, lưu thông hàng hóa và cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản; ưu tiên đầu tư cơ sở hạ tầng thiết yếu, gồm: đường giao thông, trường học, cơ sở y tế, cầu, hạ tầng điện, công trình thủy lợi;
- Hỗ trợ xây dựng, nhân rộng trên 1.000 mô hình, dự án giảm nghèo hỗ trợ phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch, khởi nghiệp, khởi sự kinh doanh nhằm tạo sinh kế, việc làm, thu nhập bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu, dịch bệnh cho hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo; người dân sinh sống trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo;
- Phấn đấu 80% người có khả năng lao động, có nhu cầu thuộc hộ nghèo, hộ trên địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ nâng cao năng lực sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp nhằm đổi mới phương thức, kỹ thuật sản xuất, bảo đảm an ninh lương thực, đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng, tăng thu nhập;
- Phấn đấu hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo có ít nhất một thành viên trong độ tuổi lao động có việc làm bền vững;
- 100% cán bộ làm công tác giảm nghèo được bồi dưỡng, tập huấn kiến thức, kỹ năng cơ bản về quản lý, tổ chức thực hiện các chương trình, chính sách, dự án giảm nghèo; lập kế hoạch có sự tham gia, xây dựng kế hoạch phát triển cộng đồng và nghiệp vụ giảm nghèo.
* Các chỉ tiêu giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản:
Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 - 2025 cùng với hệ thống chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội góp phần giải quyết mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản như sau:
+ 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo có nhu cầu được hỗ trợ kết nối, tư vấn, định hướng nghề nghiệp, cung cấp thông tin thị trường lao động, hỗ trợ tìm việc làm;
+ Tối thiểu 100.000 người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, vùng nghèo, vùng khó khăn được hỗ trợ kết nối việc làm thành công;
+ Tối thiểu 9.500 người lao động thuộc các huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được hỗ trợ đào tạo; trong đó, có khoảng 5.700 lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (ít nhất 80% hộ gia đình có người đi làm việc ở nước ngoài sẽ thoát nghèo). Hỗ trợ khoảng 1.200 người lao động tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ ngoại ngữ trước khi đi làm việc ở nước ngoài theo các Hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước tiếp nhận.
- Chiều thiếu hụt về y tế: 100% người thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo được hỗ trợ tham gia bảo hiểm y tế; giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi trẻ em dưới 16 tuổi tại các huyện nghèo, các xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo xuống dưới 34%.
- Chiều thiếu hụt về giáo dục, đào tạo:
+ Tỷ lệ trẻ em thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo đi học đúng độ tuổi đạt 90%;
+ Tỷ lệ người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo và tỷ lệ người lao động thuộc vùng nghèo, vùng khó khăn qua đào tạo đạt 60%, trong đó có bằng cấp chứng chỉ đạt 25%; 100% người lao động thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, người lao động có thu nhập thấp có nhu cầu được hỗ trợ đào tạo kỹ năng nghề phù hợp.
- Chiều thiếu hụt về nhà ở: Tối thiểu 100.000 hộ nghèo, hộ cận nghèo trên địa bàn các huyện nghèo được hỗ trợ nhà ở, đảm bảo có nhà ở an toàn, ổn định, có khả năng chống chịu tác động của thiên tai, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống và giảm nghèo bền vững.
- Chiều thiếu hụt về nước sinh hoạt và vệ sinh: 90% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh; ít nhất 60% hộ nghèo, hộ cận nghèo sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh.
- Chiều thiếu hụt về thông tin: 90% hộ nghèo, hộ cận nghèo có nhu cầu được tiếp cận sử dụng các dịch vụ viễn thông, internet; 95% các hộ gia đình sinh sống địa bàn huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo được tiếp cận thông tin về giảm nghèo bền vững thông qua các hình thức xuất bản phẩm, sản phẩm truyền thông.
Những trở ngại ở cấp địa phương
Mặc dù có những thành tựu đáng ghi nhận ở cấp quốc gia, nhưng mức độ hưởng lợi từ CT-NTM vẫn còn khác biệt ở cấp địa phương, đặc biệt là ở các khu vực miền núi phía Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng miền Trung – các vùng đất truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số. Tỷ lệ số xã nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số đạt chuẩn nông thôn mới thấp hơn tỷ lệ chung của cả nước (44,8% so với 55,6%). Các xã này bình quân cũng đạt được số tiêu chí nông thôn mới thấp hơn so với mức chung của cả nước, là 14,87/19 so với 16,38/19. Ngay cả đối với những xã đã đạt chuẩn, các thành tựu không được bền vững, bởi nhiều cơ sở hạ tầng đã xuống cấp. Tuy nhiên, tỷ lệ hộ nghèo bình quân ở các xã vùng dân tộc thiểu số và miền núi đã giảm từ 3 – 4%/năm.
Các điều kiện kinh tế xã hội từ trước, như hệ thống nước sạch và vệ sinh kém, thu nhập bình quân đầu người thấp, có nghĩa là cần phải vượt qua khoảng cách lớn hơn để đáp ứng các tiêu chí của CT-NTM. Những trở ngại về địa lý, bao gồm khoảng cách xa xôi, địa hình phức tạp và chia cắt, cũng như dân cư thưa thớt phân tán, dẫn đến chi phí đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng ở khu vực miền núi thường rất cao, cao hơn gấp 2 đến 3 lần so với các khu vực đồng bằng. Ngoài ra, đầu tư thúc đẩy sự tham gia tích cực của cộng đồng và nâng cao năng lực địa phương còn hạn chế. Chi tiêu công cũng không ưu tiên cho các xã có hạn chế về khả năng huy động nguồn lực trong khi cần đầu tư lớn. Thêm vào đó, trọng tâm là xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng mới, nhưng ngân sách cho vận hành và bảo trì lại không đủ. Một hậu quả là ô nhiễm nguồn nước ngày càng gia tăng, do hầu hết chất thải rắn và nước thải (công nghiệp và hộ gia đình) chưa được thu gom và xử lý triệt để.
Hơn nữa, các chỉ số cấp quốc gia – chỉ tập trung vào các thước đo kinh tế – không tính đến nhu cầu cấp địa phương. Chính phủ đưa ra một chuẩn chung xây dựng diện mạo nông thôn “sạch, đẹp, hiện đại” với đường nhựa hoặc đường bê tông, nhà gạch, bất kể đó là miền núi hay miền biển. Tuy nhiên, chuẩn này không phù hợp với tất cả các làng bản nông thôn, nơi kiến trúc truyền thống hòa hợp với điều kiện tự nhiên. Bên cạnh đó, CT-NTM xây dựng theo ưu tiên “điện – đường – trường – trạm”, bỏ qua cấu trúc và không gian làng xã rất quan trọng về yếu tố văn hóa. Đình, chùa, đền, miếu mạo, không còn là điểm nhấn của làng quê, vì thế mà đứt gãy những giá trị văn hóa. Điều này có nghĩa là thiếu sự đầu tư của cộng đồng vào kiến trúc và văn hóa truyền thống. Có thể dễ dàng nhận ra thực tế này, mật độ xây dựng ngày càng gia tăng, có những công trình xâm phạm trực tiếp đến các di tích, di sản.
Bình đẳng giới đã được đưa vào CT-NTM trong một chỉ số thành phần (chỉ số 18.6). Tuy nhiên, vấn đề giới không được xem xét trong bất kỳ tiêu chí nông thôn mới nào còn lại. Điều này có nghĩa là các hoạt động của CT-NTM không phản ánh tiếng nói và nhu cầu của phụ nữ.